Để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mình, người lao động tham gia hợp đồng lao động xác định thời hạn cần hiểu rõ những quy định pháp lý liên quan đến loại hợp đồng này. Bài viết sau đây sẽ cung cấp những thông tin quan trọng về khái niệm, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng, và quy định về việc chuyển đổi từ hợp đồng lao động xác định thời hạn sang không xác định thời hạn.
Tìm hiểu về hợp đồng lao động xác định thời hạn.
Hai phương thức giao kết hợp đồng theo quy định tại Khoản 1, Điều 20, Bộ Luật lao động 2019 bao gồm:
Theo Bộ luật lao động mới, hợp đồng lao động mùa vụ không còn được nhắc đến như một loại hợp đồng lao động để giao kết. Do đó, hợp đồng lao động mùa vụ nếu được xác định thời gian kết thúc rõ ràng thì chính là hợp đồng xác định thời hạn do có thời hạn cụ thể và thời hạn không quá 36 tháng.
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Các bên tham gia hợp đồng lao động xác định thời hạn đều có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng theo quy định dưới đây.
Theo quy định tại Điều 35, Bộ Luật lao động 2019, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước cho người sử dụng lao động trong các trường hợp sau đây:
Ngoài những trường hợp kể trên thì người lao động ký hợp đồng lao động xác định thời hạn vẫn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động ít nhất 30 ngày làm việc, ngoại trừ một số ngành, nghề, công việc đặc thù theo quy định của Chính phủ (quy định tại Điều 7, Nghị định 145/2020/NĐ-CP).
Theo quy định tại Điều 36, Bộ Luật lao động 2019, người sử dụng lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động xác định thời hạn trong các trường hợp sau:
a. Sau thời hạn quy định mà người lao động không có mặt tại nơi làm việc (chi tiết quy định tại Điều 31 của Bộ luật này).
b. Người lao động tự ý bỏ việc từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên và không có lý do chính đáng.
c. Người lao động thường xuyên không hoàn thành nhiệm vụ theo hợp đồng lao động sẽ được xác định dựa trên các tiêu chí đánh giá hiệu quả công việc do người quy chế mà sử dụng lao động quy định cũng như tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, nếu tại đó có tổ chức đại diện.
d. Người lao động bị ốm đau, tai nạn mà khả năng lao động chưa hồi phục để tiếp tục làm việc. Cụ thể, thời gian mà người lao động có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động khi điều trị liên tục lần lượt là 12 tháng với hợp đồng lao động không xác định thời hạn, 6 tháng với hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 12-36 tháng và khi quá nửa thời hạn trong hợp đồng đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn < 12 tháng.
đ. Khi xảy ra thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, chiến tranh hoặc do yêu cầu di dời, thu hẹp sản xuất, kinh doanh từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền, và người sử dụng lao động đã áp dụng mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm số lượng chỗ làm việc.
e. Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định (chi tiết tại Điều 169 của Bộ luật này), trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
g. Người lao động không trung thực khi cung cấp thông tin (theo quy định tại Khoản 2, Điều 16) khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng người lao động.
Về thời gian thông báo:
Khi nào hợp đồng có thời hạn chuyển thành không thời hạn?
Theo quy định tại Điều 20, Bộ Luật lao động 2024, sau thời điểm hợp đồng lao động xác định thời hạn kết thúc mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì xử lý theo các trường hợp sau:
Lưu ý, nếu hai bên ký hợp đồng mới là hợp đồng xác định thời hạn thì chỉ được ký thêm một lần. Sau khi kết thúc hợp đồng mới này mà các bên vẫn tiếp tục công việc thì phải ký hợp đồng kế tiếp là hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Ngoại trừ hợp đồng lao động đối với người được thuê làm giám đốc trong doanh nghiệp có vốn nhà nước và trường hợp quy định tại Khoản 1, Điều 149, Khoản 2, Điều 151 và Khoản 4, Điều 177 của Bộ luật này, bao gồm:
Trên đây CloudOffice cung cấp những quy định pháp luật cơ bản về hợp đồng lao động xác định thời hạn. Việc nắm rõ những quy định pháp lý về hợp đồng lao động xác định thời hạn không chỉ giúp người lao động bảo vệ quyền lợi của mình mà còn tạo sự minh bạch trong mối quan hệ lao động với người sử dụng lao động, đồng thời tránh được những tranh chấp không cần thiết.